Báo Kiểm toán đã có cuộc trao đổi với TS. Phùng Hà – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam xung quanh câu chuyện thuế GTGT cho phân bón.
* Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (Luật Thuế 71) sau khi được thực thi đã bộc lộ những bất cập hạn chế gì, thưa ông?
– Qua thời gian thực hiện, Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (sau đây gọi tắt là Luật Thuế 71) có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 đã đi vào cuộc sống.
Bên cạnh những kết quả đạt được, qua triển khai thực hiện chính sách thuế GTGT cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Cụ thể, theo quy định của Luật 71 thì phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Thực hiện quy định trên, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đã gặp một số khó khăn như: Do không được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ bao gồm cả hoạt động đầu tư, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động sản xuất phân bón mà phải tính vào chi phí sản phẩm, khiến giá thành tăng và lợi nhuận giảm; bất lợi trong cạnh tranh với phân bón nhập khẩu.
Điều này cũng không khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất phân bón đầu tư, mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định để tạo ra sản phẩm phân bón thế hệ mới, chất lượng cao, hàm lượng công nghệ lớn.
Thêm nữa, theo Luật 71, phân bón nhập khẩu không có thuế GTGT, điều này có lợi cho các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu phân bón sang Việt Nam và làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất trong nước khi phải gánh chịu chi phí thuế GTGT.
* Ông có thể đưa ra một vài con số (ước tính) để thấy được việc “lợi bất cập hại” của Luật Thuế 71?
– Theo Luật Thuế 71, doanh nghiệp sản xuất phân bón không được khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào. Từ năm 2020 đến nay các đơn vị thành viên của Hiệp hội hoặc không tính toán hoặc không cập nhật số liệu về Hiệp hội nên chúng tôi chỉ có số liệu của năm 2020 về trước.
Các doanh nghiệp sản xuất phân bón của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (bao gồm các doanh nghiệp sản xuất urea, DAP, supe lân, lân nung chảy, NPK) không được khấu trừ khoảng 400- 650 tỷ mỗi năm, hai doanh nghiệp sản xuất phân bón của Tập đoàn Dầu khí từ 500- 650 tỷ đồng mỗi năm. Cụ thể hơn theo số liệu thống kê của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, số thuế giá trị không được khấu trừ tính vào chi phí của doanh nghiệp năm 2018 của một số đơn vị như sau: Công ty CP Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc trên 141 tỷ đồng, Công ty Cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao 142 tỷ đồng, Công ty TNHH MTV Đạm Ninh Bình 113 tỷ đồng,…
Theo số liệu của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PFCCCo), khoản thuế GTGT đầu vào của PVFCCo năm 2016 là 284 tỷ; năm 2017 là 371 tỷ; năm 2018 là 518 tỷ; năm 2019 là 358 tỷ; năm 2020 là 326 tỷ.
Theo một công bố, ước tính quy mô ngành phân bón Việt Nam ở mức hàng trăm nghìn tỷ đồng/năm và tỷ lệ thuế toàn ngành không được khấu trừ ở mức 5% thì các đơn vị toàn ngành gánh chịu vài nghìn tỷ đồng/năm.
* Nếu đưa mặt hàng phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT, theo ông là bao nhiêu % là hợp lý?
Để tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho ngành sản xuất phân bón trong nước duy trì và phát triển ổn định, bền vững, tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu, cần đưa mặt hàng phân bón từ không chịu thuế GTGT sang mặt hàng chịu thuế GTGT. Về đề xuất tỷ lệ bao nhiêu % đã có nhiều cuộc hội thảo, hội nghị. Thí dụ Bộ Công Thương đề nghị Bộ Tài chính đưa phân bón là mặt hàng chịu thuế giá trị gia tăng từ 0-5% và báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn.
Bộ Tài chính cho biết: Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy mặt hàng phân bón là mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp nên chính sách thuế GTGT của nhiều quốc gia được thiết kế theo hướng ưu đãi hơn so với các mặt hàng thông thường khác. Bộ Tài chính nhận được kiến nghị của Hiệp hội Phân bón Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đề nghị chuyển phân bón sang đối tượng chịu thuế GTGT ở mức 5%.
* Thời gian qua, Hiệp hội có những đề xuất, kiến nghị gì để “gỡ khó” cho doanh nghiệp phân bón và bà con nông dân?
– Nhằm tháo gỡ những khó khăn, hạn chế ảnh hưởng đến ngành phân bón, từ năm 2015 đến nay Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã có công văn kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam… và một số cơ quan khác về việc sửa đổi Luật số 71, đưa mặt hàng phân bón vào đối tượng chịu thuế với mức thuế suất 0% hoặc 5%. Rất nhiều cuộc hội thảo, hội nghị về Luật 71 đã được tổ chức; rất, rất nhiều bài báo, phóng sự trên các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập đến việc sửa đổi Luật 71
Năm 2015, tại Văn bản số 7050/VPCP-KTTH ngày 08 tháng 9 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến “đối với phân bón, giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan đánh giá tình hình thực hiện năm 2015 để đề xuất sửa đổi trong năm 2016”.
Năm 2020, tại Thông báo số 66/TB-VPCP ngày 27 tháng 02 năm 2020, Văn phòng Chính đã thông báo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ “các bộ, ngành khẩn trương đề xuất, trình Thủ tướng Chính phủ các gói chính sách hỗ trợ về tín dụng, thuế, xuất khẩu và mở rộng thị trường nội địa, kể cả các giải pháp theo quy định phải báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội nếu thấy thực sự cần thiết”. Thực hiện chỉ đạo nêu trên của Thủ tướng Chính phủ, Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã có Văn bản số 299/HHPBVN ngày 03 tháng 3 năm 2020 kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trước đấy là văn bản gửi Tổ công tác của Thủ tướng, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ trình Quốc hội để có thể sửa đổi Luật số 71/2014/QH13.
Xin cảm ơn ông!
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong năm 2023, mức nhập khẩu phân bón của cả nước đạt gần 4,12 triệu tấn, trị giá trên 1,41 tỷ USD, tăng 21,3% về lượng và giảm 12,8% về trị giá so với năm 2022. Giá trung bình nhập phân bón trong năm 2023 đạt 342,9 USD/tấn, giảm 28% so với năm 2022.
Trong đó, Trung Quốc và Nga lần lượt là 2 thị trường đứng đầu về cung cấp phân bón cho Việt Nam, chiếm gần 60% tổng lượng và kim ngạch nhập khẩu phân bón của nước ta. Theo Bộ Tài chính, kinh nghiệm quốc tế cho thấy mặt hàng phân bón là mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp nên chính sách thuế GTGT (hoặc thuế hàng hóa dịch vụ, thuế bán hàng) của nhiều nước được thiết kế theo hướng ưu đãi hơn so với các mặt hàng thông thường khác. Chính phủ nhiều nước đã thông qua các chính sách và chương trình hỗ trợ trên các phương diện khác nhau nhằm tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển ngành phân bón, trong đó chính sách hỗ trợ về thuế cũng là công cụ thường được các nước sử dụng. Tại Trung Quốc, mức thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với phân bón hiện ở mức 11% và đang đề xuất giảm xuống mức 9%, trong khi Nga áp mức thuế 20% đối với mặt hàng này. Việc các nước đưa phân bón vào diện chịu thuế GTGT lại giúp doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào khi xuất khẩu sang Việt Nam. Phân bón nhập khẩu vào Việt Nam lại không phải chịu thuế GTGT tại khâu nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp nước ngoài có điều kiện hạ giá bán và cạnh tranh không công bằng với phân bón sản xuất trong nước. Trong khi đó, tại Việt Nam, phân bón không nằm trong danh sách hàng hóa “được” chịu thuế GTGT, theo Luật Thuế Giá trị gia tăng 2014 (Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014). |